Tượng Phật nhập Niết Bàn dài nhất Đông-Nam-Á |
H. Diệu |
Núi Tà Cú (núi Cú) là 1 danh lam thắng cảnh (thuộc thị trấn Thuận Nam, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận) gắn liền với quần thể di tích lịch sử văn hóa chùa Tổ (chùa trên) và Linh Sơn Long Đoàn (chùa dưới). Chùa Tổ được vua Tự Đức ban sắc phong bốn chữ "Linh Sơn Trường Thọ", tọa lạc trên lưng chừng núi, độ cao 420 mét so với mực nước biển. Quần thể chùa được hình thành theo thế núi nên chùa trên và chùa dưới đều quay mặt về hướng Đông Nam, với kiến trúc đặc trưng theo Phật giáo Bắc tông thời Nguyễn, được Sư tổ Hữu Đức khai sơn vào khoảng 1870-1880 và được chư hậu tổ tiếp tục trùng tu. Cấu trúc chùa Tổ có ba gian. Giữa là chánh điện thờ Phật, bên trái là nhà giám tự, bên phải là nơi thờ Tổ Hữu Đức. Trải qua thời gian 135 năm, dấu tích cổ kính vẫn hằn in, rêu phong phủ đầy trên những nét cong huyền hoặc của mái chùa, trên nét chạm khắc lưỡng long chầu nguyệt. Các câu chú Chuẩn Đề ở vòng linh phù được chạm khắc trên vách đá sau chùa in dấu với thời gian về một đại lão Hòa Thượng đã có nội lực tu luyện, thấu triệt tinh thần Mật tông đích thực làm phương tiện tu chứng đạt hai chữ chơn không của bậc đại trí, gíác ngộ. Từ Tổ đình Linh Sơn Trường Thọ ở lưng chừng núi sẽ nhìn thấy trên cao cảnh Tịnh độ nhân gian gồm tam thế Phật nổi bật giữa không trung bạt ngàn của tàng cây cổ thụ. Tượng Phật Di Đà cao 7 mét, tượng Quan Thế Âm và Đại Thế Chí cao 6,5 mét như hòa vào bức tranh trầm mặc của rừng già. Hoà Thượng trụ trì Thích Vĩnh Thọ ( ) đã có công phác thảo công trình này từ năm 1960, do kỹ sư Trương Đình Ý, pháp danh Quảng Lưu xây dựng. Công trình là một trong bảy cấp của cảnh Tịnh Độ đạo tràng theo Quán kinh và kinh Di Đà. Nhưng, công trình mỹ thuật mang tính đồ sộ nhất là pho tượng lộ thiên Đức Phật Thích Ca nhập Niết Bàn trên đỉnh núi dài 49 mét, cao 11 mét với tư thế nằm nghiêng, lưng tựa vào vách núi, gối đầu lên tay. Pho tượng bằng bê-tông cốt thép phủ vôi trắng được khởi công xây dựng từ năm 1962, sau 4 năm công trình mới hoàn thành với tổng thể chu vi 832 mét, tượng trưng đầy đủ hình tứ thánh lục phàm và thất chúng Phật tử. Đức Phật nằm nghiêng dài 49 mét tượng trưng cho 49 năm từ khi Đức Phật thành đạo đến khi nhập diệt. Bên dưới tượng là những tam cấp được nối kết bằng những đá chẻ, phía sau lưng tượng là vách núi và cây rừng thâm u, tịch tĩnh. Từ Tổ đình Linh Sơn Trường Thọ đến viếng tượng Phật nhập Niết Bàn phải men theo lối đá lớn nhỏ ngoằn ngoèo... Huyền thoại về hang Tổ Tổ sư Hữu Đức nguyên quán làng Bạc Má, quận Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sinh năm 1812 trong một gia đình chơn chất. Thuở nhỏ Tổ rất thông minh, hiền lành, sớm am tường thi lễ. Năm 17 tuổi cha mẹ qua đời, 5 năm sau ngài giao lại gia sản cho anh em, bắt đầu cuộc hành trình tìm đạo. Trên mảnh thuyền nan lướt sóng, suốt 3 ngày liền Tổ Hữu Đức tìm đến chùa Bửu Lâm (Phố Hài - Bình Thuận) bái yết sư phụ là ngài Trí Chất và được đặt pháp danh là Thông Ân. Suốt 13 năm, Tổ Hữu Đức luôn dùi mài kinh điển, giữ nghiêm giới luật. Sau đó, Tổ rời chùa Bửu Lâm, đến làng Kim Thạnh, xứ Bàu Trâm (Bình Thuận) dựng nên ngôi thảo am chuyên tu thiền và bốc thuốc tế độ dân làng. Đức độ của một thiền sư trẻ đã lan dần khắp nơi nên dân làng góp nhau dựng nên chùa Kim Quang mời Tổ về hành đạo. Ở đây một thời gian thì duyên lành đưa đến, ngài được Hòa Thượng Bửu Tạng (gốc từ chùa Bát Nhã - Phú Yên) trên đường du hoá phương nam, truyền Đại giới. Lúc này, nhận thấy đường tu cần phải ẩn mình để tịnh niệm, nghiền ngẫm những giáo lý thâm sâu, Tổ Hữu Đức lại tìm đường đến Bàu Siêu gần bãi Kê Gà (Bình Thuận) tịnh tu nhưng dân chúng lại kéo nhau đến xin quy y ngày càng đông. Lúc này, tuổi đã cao nhưng tâm niệm tịnh tu vẫn chưa thành, Tổ Hữu Đức lại âm thầm băng ngàn... Nghĩ rằng Tà Cú là nơi thâm sơn cùng cốc, nên Tổ Hữu Đức len mình qua đại ngàn đầy nguy hiểm. Đến được bãi đá bàn hạ rồi tiếp tục chinh phục bãi đá bàn thượng, đến đây Tổ tạm dừng chân tu khổ luyện nhưng chỉ dừng có ba tháng, ngài lại tiếp tục đu dây rừng vượt lên tận núi cao tìm được hang đá sâu thẳm, hiểm trở làm nơi "Như Lai tịch thất" ẩn tu và nguyện không một ngày xuống núi. Núi rừng đại ngàn thâm sâu với thú dử, khí hậu khắc nghiệt, không ngăn cản được quyết tâm của một bậc tu hành đầy nội lực. Nhờ nội lực cao siêu mà Tổ (thuộc dòng Lâm Tế chánh tông thứ 40) đạt được sức mạnh chuyển hóa vạn vật xung quanh trong suốt 16 năm khai sơn với biết bao huyền thoại mầu nhiệm quanh bậc đại trí, đại hùng. Tương truyền, khi Tổ dừng chân trên hang núi hẹp, sâu thẳm, ẩn tu, ăn rau lủi bên vách núi, uống nước suối trong hang, tọa thiền và chuyên tụng kinh Tam Bảo. Phía chân tượng Phật nằm ngày nay là hang Tổ, cửa vào rất hẹp chỉ đủ cho một người, luồn vào trong, có những tảng đá bàn là nơi Tổ thiền định. Càng vào sâu, hang càng ngóc ngách, âm u. Lòng đá dốc ngược như vô tận. Lối đi càng ngày càng trút xuống dần, nhiều vực thẳm. Người xưa kể rằng, muốn đi thám hiểm phải đốt nhang làm dấu để quay về, hoặc thả vào hang một quả bưởi vài hôm sau đã thấy nó hiện lên ngoài biển Kê Gà. Đức độ, nội lực tu tập của Tổ đã quy phục được muôn loài. Quanh hang Tổ, lúc nào cũng có thú rừng : chim muông, mãnh hổ,... về thọ pháp, nghe kinh. Đó là cặp chim hoàng anh lúc nào cũng đậu bên hang, hễ khách đến thì hót vang báo hiệu rồi bay đi dẫn đường cho khách. Tương truyền bạch hổ luôn luôn phủ phục bên hang, hộ tống Tổ và được Tổ cho quy y. Ngày Tổ viên tịch (5/10/Đinh Hợi-1887), bạch hổ buồn rầu, nhịn ăn nằm bên tháp Tổ cho đến chết. Ngày nay, khi đến viếng Tổ đình Linh Sơn Trường Thọ, ngay bên cạnh tháp Tổ, người ta cũng nhận thấy một nấm mồ nhỏ, đó là nơi chôn cất nhục thân bạch hổ. Năm Tự Đức thứ 33 (1880), Hoàng Thái Hậu là bà Từ Dũ bị bệnh nặng, các danh y đều bất lực. Vua được tin Tổ là người danh đức nên hạ chiếu mời Tổ về chữa bệnh. Nhưng vì đã nguyện không xuống núi nên Tổ đã đưa cho các sứ thần chú Chuẩn Đề, thảo dược cùng cách dùng. Thật mầu nhiệm, bệnh của Thái Hậu giảm hẳn, vua nhớ ơn và cảm phục nên ban sắc phong bốn chữ "Linh Sơn Trường Thọ". Có người còn kể, sự linh ứng của Tổ còn mãi về sau nầy, đó là khi xây dựng tượng Phật nhập Niết Bàn 49 mét trên đỉnh Linh Sơn Tà Cú. Lúc bấy giờ để đưa cát từ dưới núi lên rất là khó khăn, giữa địa hình núi đá hiểm trở, phủ kín cây rừng. Để có cát xây dựng, trước ngày thi công (tùy thuộc thời gian của thợ hồ), Hòa Thượng Thích Vĩnh Thọ, trụ trì chùa cho trữ nước dùng vào cái mái chứa rồi bít kín các mạch nước chảy hàng ngày. Hoà Thượng thắp nhang chú nguyện, sáng ra từ các mạch nổi đã trào ra những đụn cát nhuyễn dùng được cho công trình mà không cần mang từ chân núi lên... Giải Đáp thắc mắc (Bài số 4) Bài Pháp đầu tiên và bữa ăn cuối cùng Hỏi : Sau khi Phật thành đạo, Ngài thuyết pháp Tứ Đế cho năm anh em Kiều Trần Như trước hay thuyết kinh Hoa Nghiêm trước ? Thời gian là bao lâu ? Đáp : Vấn đề pháp thoại đầu tiên được Đức Phật tuyên thuyết hiện tồn tại nhiều quan niệm khác nhau. Theo quan điểm của Phật giáo Nam truyền, sau khi Đức Phật thành đạo, Ngài an trú trong thiền định để chứng nghiệm Hạnh Phúc Giải Thoát (Vimutti Sukkha). Sau khi Phạm thiên Sahampati cung thỉnh Phật hoằng dương chánh pháp đến lần thứ ba, Thế Tôn mới rời khỏi cội bồ đề, hướng về Bénarès quyết định chuyển Pháp luân. Bài pháp đầu tiên Đức Phật thuyết cho năm anh em Kiều Trần Như tại Lộc Uyển là kinh Chuyển Pháp Luân. Theo quan điểm của Phật giáo Bắc truyền (Ngũ thời giáo - Thiên Thai tông) thì bài pháp đầu tiên là kinh Hoa Nghiêm. Pháp thoại này được Thế Tôn tuyên thuyết trong thiền định ngay sau khi thành đạo với hội chúng là chư vị Bồ tát. Thời gian Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm là 21 ngày (Hoa Nghiêm tối sơ tam thất nhật). Hỏi : Vì sao Bích Chi Phật gọi là Duyên Giác, Độc Giác mà không gọi A La Hán ? Bích Chi Phật có thể gọi là Bồ tát không ? Bích Chi Phật (Pratyeka Buddha) có nghĩa là Độc Giác Phật và Duyên Giác Phật. Vị Bích Chi Phật sinh ra đời nhằm lúc không có Phật, không thầy dạy bảo, tự mình tu tập giác ngộ rồi nhập Niết Bàn, nên gọi là Độc Giác. Nhờ quán sát về Thập Nhị Nhân Duyên, giác ngộ lý duyên sanh của vạn pháp mà thành tựu giải thoát nên gọi là Duyên Giác (Đại Trí Độ luận, quyển 2). Vị thánh A La Hán cũng là bậc giác ngộ, giải thoát nhưng khác với vị Bích Chi Phật ở chỗ là các vị A La hán tu tập theo sự hướng dẫn trực tiếp của Phật hoặc theo giáo pháp Phật truyền dạy. Một vị Bích Chi Phật sau khi giác ngộ rồi Niết Bàn thì không gọi là Bồ Tát. Tuy nhiên, nếu vị Bích Chi ấy phát tâm vô thượng bồ đề, nguyện hóa độ chúng sanh thì được gọi là Bồ Tát. Theo Đại Trí Độ luận, quyển 78, thuyết minh Tam thừa cộng Thập địa (Mười địa vị chung của ba thừa) thì địa vị của Bích Chi là Chi Phật địa. Theo Niết Bàn kinh, vị Bích Chi Phật phát tâm vô thượng Bồ đề, trải qua mười ngàn kiếp sẽ thành Phật, Như Lai, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Hỏi : Sau khi thọ dụng bữa ăn do Cunda dâng cúng, Thế Tôn dạy : "Cunda, chỗ còn lại của món nấm chiên đàn này con nên đào đất chôn đi đừng để ai ăn nữa". Xin cho biết vì sao dạy như vậy, có hàm ý gì không ? Đáp : Sự kiện bữa ăn cuối cùng của Thế Tôn trước khi Niết Bàn do Cunda (Thuần Đà, Châu Na) dâng cúng được đề cập đến trong các kinh như kinh Đại Bát Niết Bàn (Trường Bộ 1), kinh Du Hành (Trường A Hàm 1), kinh Đại Bát Niết Bàn (Bắc bản), kinh Niết Bàn (Nam bản)... Chính lời dạy "này Cunda, món ăn mộc nhĩ còn lại này ngươi hãy đem chôn" cùng với sự kiện "sau khi dùng cơm của thợ sắt Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh ly huyết, đau đớn gần như đến chết" (Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ 1, VNCPHVN ấn hành 1991, tr 624) đã khiến cho mọi người đặt vấn đề với "món mộc nhĩ hay chiên đàn (Sukara maddave) của Cunda ?". Thế Tôn đã giải thích nguyên do của việc "đem chôn phần mộc nhĩ còn lại" cho Cunda rằng "Ta không thấy một ai ở cõi Trời, cõi Người, Ma giới và Phạm Thiên giới, không một người nào trong chúng Sa môn và chúng Bà La Môn ăn món mộc nhĩ này mà còn có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai " (sđd). Cũng theo kinh văn, trong nhiều món thức ăn mà Cunda dâng cúng Phật và chư Tăng ngày đó, Phật chỉ chọn duy nhất món mộc nhĩ, dạy Cunda dâng cúng chư Tăng các loại thức ăn khác đồng thời sau khi ăn xong, phần mộc nhĩ còn lại bảo Cunda đem chôn. Từ đây chúng ta có thể khẳng định, với tuệ giác của Thế Tôn, bậc Chánh Biến Tri, Ngài thấy rằng món ăn thượng vị mộc nhĩ ấy có thể đã bị nhiễm khuẩn hay vì một nguyên nhân nào đó mà nếu thọ dụng sẽ có hại cho sức khỏe (Cunda hoàn toàn vô tâm, không hề biết chuyện này) nhưng vì lòng bi mẫn đối với tâm thanh tịnh cúng dường của Cunda nên Ngài thọ nhận để Cunda được phước báo thù thắng và tối thượng. Tất nhiên, với nhục thân ngũ uẩn già yếu và đã nhuốm bệnh trước đó, nơi vườn xoài Ampapali nên sau khi thọ dụng mộc nhĩ của Cunda bệnh của Ngài càng nặng thêm, chứ không phải vì ăn mộc nhĩ mà sanh bệnh (Thích Giới Nghiêm, kinh Mi Tiên vấn đáp, nxb Tôn Giáo 2003, tr 452). Do vậy, sau khi rời khỏi nhà Cunda, Thế Tôn đã dạy ngài A Nan giải nghi cho Cunda và đại chúng về bữa ăn sau cùng của Như Lai. Ngài khẳng định : "Có hai sự cúng dường ăn uống có quả báo và lợi ích lớn hơn các sự cúng dường về ăn uống khác. Đó là bữa ăn trước khi Như Lai chứng Vô Thượng Chánh Đẳng giác và bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ, Niết Bàn" (sđd, tr637). Bồ Tát Đại Thế Chí và Hộ Pháp Vi Đà Hỏi : Xin cho biết đại lược về Bồ Tát Đại Thế Chí và Hộ Pháp Vi Đà ? Đáp : Bồ tát Đại Thế Chí, tên Phạn ngữ là Mahasthamaprata. Hán dịch Đắc Đại Thế, Đại Tinh Tấn, gọi tắt là Đại Thế hoặc Thế Chí. Ngài có oai lực vĩ đại, trí tuệ sáng suốt chiếu khắp pháp giới, mỗi bước di của Ngài làm cho mười phương thế giới chấn động. Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ : "Vì trí tuệ chiếu sáng khắp hết thảy khiến chúng sanh lìa ba đường ác, được lực vô thượng, nên được gọi là Đại Thế Chí Bồ Tát". Kinh Bi Hoa chép : "Trong quá khứ, Ngài là thái tử Ni Ma, con vua Vô Tránh Niệm. Vua gặp Phật Bảo Tạng, phát tâm xuất gia và giác ngộ. Thái tử cũng phát tâm tu hành, được Phật Bảo Tạng thọ ký về sau thành Đại Thế Chí Bồ tát, ở cõi cực lạc của Phật A Di Đà". Nhờ có nhân duyên với pháp môn niệm Phật, nên khi còn trong nhân địa tu hành Ngài được Đức Siêu Nhật Nguyệt Quang Như Lai đã truyền dạy pháp môn Niệm Phật Tam Muội, niệm Phật chứng Vô Sanh Pháp Nhẫn, vì thế nay tiếp dẫn người niệm Phật ở Ta bà về Tịnh độ (kinh Thủ Lăng Nghiêm, Q.5). Kinh Bi Hoa huyền ký, Bồ tát Đại Thế Chí về sau, khi Phật A Di Đà và Bồ tát Quán Thế Âm nhập diệt sẽ bổ xứ thành Phật hiệu Thiên Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai, tiếp tục giáo hóa chúng sanh ở Tây Phương. Hiện tại Bồ tát Đại Thế Chí cùng Bồ tát Quán Thế Âm đang trợ hóa cho Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sanh về Cực lạc. Trong Tam Tôn, Bồ tát Đại Thế Chí đứng bên phải Phật A Di Đà, tượng trưng cho Trí tuệ. Bồ tát Quán Thế Âm tượng trưng cho Từ bi. Hộ pháp Vi Đà, một vị thiên tướng mặt rất trẻ, uy dũng, tay cầm chày Kim Cang (hoặc kiếm) thờ trước chánh điện (dân gian gọi là ông Thiện) là 1 vị thiện thần ủng hộ Phật pháp, được tôn xưng Bồ tát. Cứ Nam Sơn Cảm Thông lục (Đạo Tuyên) và Pháp Uyển Châu Lâm (Đạo Thế) thì Hộ pháp Vi Đà là thiên tướng của Nam Thiên vương, tên Vi Côn, thường qua lại ba châu (Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, Tây Ngưu Hóa châu) ủng hộ Phật pháp. Vì không có tượng của Vi Côn nên người đời dùng tượng Vi Đà thay thế. Thuyết này thịnh hành từ thời Đường. Đến thời Tống, Phật giáo Trung quốc hầu hết đã chấp nhận tín ngưỡng Hộ pháp Vi Đà. Tuy nhiên theo quan điểm của Phiên dịch danh nghĩa tập (Pháp Vân) thì Hộ pháp Vi Đà là vị Chấp Kim Cang thần, Mật Tích Kim Cang, tay cầm chày kim cang, dùng đại oai lực ủng hộ Phật pháp. Từ khởi nguyên (thời Đường, Tống) đã có nhiều quan niệm khác nhau về Hộ pháp Vi Đà. Dựa vào hình dáng, tên gọi, hạnh nguyện và ảnh hưởng sâu rộng trong Phật giáo của Hộ pháp Vi Đà hiện nay, chứng tỏ Phật giáo Trung quốc đã dung hội đặc tính của ba vị thiện thần hộ pháp để hình thành nên tín ngưỡng hộ pháp Vi Đà. Theo nghiên cứu của Ấn Thuận đại sư, Hộ pháp Vi Đà tay cầm chày kim cang hiện nay là do sự pha trộn và tiếp biến giữa ba vị thiện thần khác nhau : Vi Đà thiên, Vi Côn thiên và thần Kim Cang Mật Tích. Vi Đà thiên tuy là vị thần của Bà La Môn giáo, nhưng đến thời Lương đã được xem như là vị thiện thần hộ pháp. Vi Côn là vị tướng trời nhân vì cảm đức của Đạo Tuyên mà phát nguyện phò trì Tam bảo. Kim Cang Mật Tích là vị thần hộ pháp rất phổ biến trong nhiều kinh điển Đại thừa, đặc biệt đối với Mật tông. Có thể nói : "Hộ pháp Vi Đà ở Trung quốc bản chất là Mật Tích Kim Cang cùng với sự nhiệt thành hộ pháp của tướng trời Vi Côn và Vi Đà hợp lại mà thành" (Phật giáo sử địa khảo luận - Ấn Thuận)./. (Tông Cổ)
PHÂN ƯU
Được tin Bổn Sư của Đại Đức Thích Nguyên Tạng Phó Trụ Trì chùa Quảng Đức (Melbourne - Úc châu) Thượng Tọa Thích Chơn Kiến viên tịch ngày 3/9/2006 (11/7 nhuần năm bính Tuất) tại chùa Thiên Phú Phú Vinh - Nha Trang - Việt Nam Thế tuế : 59 Đạo lạp : 49. Hạ lạp : 37. Chân thành phân ưu với Đại Đức Thích Nguyên Tạng và môn đồ pháp quyến chùa Thiên Phú - Nha Trang. Nguyện cầu giác linh cố Thượng Tọa Cao đăng Phật quốc thượng phẩm thượng sanh. Nhiên hậu, hồi đáo Ta Bà, tiếp tục kiến thiết đạo tràng, tiếp dẫn hậu lai như công hạnh trong hiện tại. Hòa Thượng Trụ Trì và Tăng chúng chùa Khánh Anh - Pháp quốc. Nhớ lại năm 2003, gặp trong dịp lễ Khánh thành chùa Quảng Đức (Úc châu), thầy ao ước sẽ đi một chuyến Âu châu dự lễ Khánh thành chùa Khánh Anh (Pháp). Sau này, thêm một vài lần thơ thăm hỏi tin tức. Nhưng chùa Khánh Anh chưa kịp tổ chức lễ Khánh thành thì thầy đã đi rồi. vậy xin có lời tạ lỗi về sự chậm trể. (HT Trụ Trì) |